13 trận đánh chính trong Thế chiến 2 – Danh sách

  • Chia Sẻ Cái Này
Stephen Reese

    Sau Đại chiến, các nước châu Âu mong chờ một thời kỳ hòa bình lâu dài. Pháp và Anh không muốn tham gia chiến đấu chống lại các quốc gia có lãnh thổ khác, và thái độ không đối đầu này cho phép Đức từ từ thôn tính các nước láng giềng của họ, bắt đầu với Áo, tiếp theo là Tiệp Khắc, Litva và Danzig. Nhưng khi họ xâm lược Ba Lan, các cường quốc trên thế giới không còn lựa chọn nào khác ngoài việc can thiệp. Tiếp theo đó là cuộc xung đột lớn nhất, bạo lực nhất mà nhân loại biết đến, được đặt tên một cách khéo léo là Chiến tranh thế giới thứ 2.

    Dưới đây là mười ba trong số những trận chiến quan trọng nhất được thực hiện trên không, trên bộ và trên biển cũng như ở mọi châu lục trên thế giới. thế giới. Chúng được sắp xếp theo thứ tự thời gian và được lựa chọn dựa trên tầm quan trọng của chúng đối với kết quả của cuộc chiến.

    Trận chiến Đại Tây Dương (tháng 9 năm 1939 – tháng 5 năm 1943)

    A U -Boat – Tàu ngầm hải quân do Đức kiểm soát

    Trận chiến Đại Tây Dương được gọi là chiến dịch quân sự liên tục dài nhất kéo dài từ khi bắt đầu chiến tranh đến khi kết thúc (1939 đến 1945). Hơn 73.000 người đã thiệt mạng ở Đại Tây Dương trong giai đoạn này.

    Khi chiến tranh được tuyên bố, lực lượng hải quân Đồng minh đã được triển khai để đảm bảo rằng việc phong tỏa Đức được thực hiện, hạn chế dòng tiếp tế đến Đức . Các trận hải chiến không chỉ diễn ra trên bề mặt, vì tàu ngầm đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển của cuộc chiến. quý ngàiphản công mà ông hy vọng có thể ngăn quân Đồng minh tiến đến Đức.

    Ardennes sẽ là địa bàn được chọn, và vào sáng ngày 16 tháng 12 năm 1944, quân Đức đã mở một cuộc tấn công bất ngờ vào quân Đồng minh gây thiệt hại lớn thiệt hại cho quân đội của họ. Nhưng đó là một cuộc tấn công tuyệt vọng, vì lực lượng tiếp viện và phương tiện bọc thép của Đức lúc đó gần như cạn kiệt.

    Đức đã cố gắng trì hoãn bước tiến của quân Đồng minh vào trung tâm châu Âu trong 5 đến 6 tuần, nhưng không đủ thời gian để tập hợp nhiều tài nguyên hơn và xây dựng nhiều xe tăng hơn. Trận chiến Bulge là cuộc xung đột lớn nhất và đẫm máu nhất của quân đội Hoa Kỳ trong Thế chiến 2, với gần 100.000 người thương vong. Cuối cùng, nó đã dẫn đến chiến thắng của quân Đồng minh và định đoạt số phận của các cường quốc phe Trục gần như kiệt quệ.

    Tóm lại

    Chiến tranh thế giới thứ 2 là một điểm quyết định của thời gian, một sự kiện quan trọng đã thay đổi lịch sử hiện đại. Từ hàng trăm trận chiến đã diễn ra, trên đây là một số trận quan trọng nhất và cuối cùng đã giúp lật ngược tình thế mang lại chiến thắng cho quân Đồng minh.

    Bản thân Winston Churchill đã tuyên bố: “ Điều duy nhất thực sự khiến tôi sợ hãi trong chiến tranh là hiểm họa U-Boat”.

    Cuối cùng, lực lượng Đồng minh đã lật đổ được ưu thế hải quân của Đức, và gần 800 tàu ngầm của Đức đã được gửi xuống đáy Đại Tây Dương.

    Trận chiến Sedan (tháng 5 năm 1940)

    Là một phần trong cuộc tấn công của Đức qua Ardennes, một khu vực đồi núi và nhiều cây cối ở phía Bắc của Pháp và Bỉ, làng Sedan bị chiếm vào ngày 12 tháng 5 năm 1940. Quân phòng thủ Pháp đã chờ đợi để phá hủy các đầu cầu, khi quân Đức đến gần, nhưng họ đã không làm được điều đó do bị Luftwaffe (Đức) ném bom dữ dội. lực lượng không quân) và sự tiến công nhanh chóng của quân đội trên bộ.

    Ngay lúc đó, lực lượng tiếp viện của quân Đồng minh đã đến dưới hình thức máy bay của lực lượng không quân Anh và Pháp nhưng đã chịu tổn thất nặng nề trong quá trình này. Đức đã chứng tỏ sự vượt trội của họ cả trên trời lẫn dưới đất. Sau Sedan, quân Đức gặp rất ít kháng cự trên đường tiến về Paris, nơi cuối cùng họ đã chiếm được vào ngày 14 tháng 6.

    Trận chiến nước Anh (tháng 7 – tháng 10 năm 1940)

    Nói về ưu thế máy bay, người Anh đã hoàn toàn khiếp sợ trong bốn tháng vào năm 1940, khi Luftwaffe thực hiện cái mà họ gọi là Blitzkrieg : các cuộc không kích chớp nhoáng, quy mô lớn vào đất Anh vào ban đêm, trong đó họ nhằm phá hủy các sân bay, radar và các thành phố của Anh . Hitler tuyên bố rằng điều này đã được thực hiện trongtrả thù, sau khi hơn 80 máy bay ném bom RAF thả bom xuống các khu thương mại và công nghiệp của Berlin. Vì vậy, họ đã cử hơn 400 máy bay ném bom và hơn 600 máy bay chiến đấu tấn công London vào ngày 7 tháng 9. Khoảng 43.000 thường dân đã thiệt mạng theo kiểu này. Ngày 15 tháng 9 năm 1940, được gọi là 'Ngày Trận chiến của Anh', vì vào ngày đó, một trận không chiến quy mô lớn đã diễn ra ở London và Kênh tiếng Anh. Khoảng 1.500 máy bay đã tham gia trận chiến này.

    Tấn công Trân Châu Cảng (7 tháng 12 năm 1941)

    Cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào con tem Hoa Kỳ năm 1991

    Cuộc tấn công bất ngờ này vào các vị trí của Mỹ ở Thái Bình Dương được nhiều người coi là sự kiện xác định sự tham gia của Hoa Kỳ vào Thế chiến 2. Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, lúc 7:48 sáng, hơn 350 máy bay Nhật Bản xuất phát từ sáu loại khác nhau hàng không mẫu hạm và tấn công một căn cứ của Mỹ ở đảo Honolulu, Hawaii. Bốn tàu chiến của Hoa Kỳ đã bị đánh chìm và quân đội Hoa Kỳ đóng tại đó chịu thương vong 68 người.

    Người Nhật dự kiến ​​​​sẽ chinh phục tất cả các vị trí của Mỹ và châu Âu ở Thái Bình Dương trong một thời gian ngắn, và họ bắt đầu với Trân Châu Cảng. Mặc dù cuộc tấn công được lên kế hoạch bắt đầu một giờ sau khi tuyên bố chiến tranh chính thức được đưa ra, nhưng Nhật Bản đã không thông báo cho Hoa Kỳ về việc kết thúc đàm phán hòa bình.

    Tổng thống Roosevelt đã không lãng phí thời gian và tuyên chiến với Nhật Bản vào ngày hôm sau . Ngày 11Tháng 12, cả Ý và Đức đều tuyên chiến với Mỹ. Cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng sau đó bị tuyên bố là một tội ác chiến tranh, vì nó được thực hiện mà không có cảnh báo trước và không có tuyên chiến trước đó.

    Trận chiến Biển San Hô (tháng 5 năm 1942)

    Hàng không mẫu hạm USS Lexington của Hải quân Hoa Kỳ

    Sự trả đũa của Hoa Kỳ diễn ra nhanh chóng và hung hãn. Trận hải chiến lớn đầu tiên giữa Hải quân Đế quốc Nhật Bản và Hải quân Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ của quân đội Úc, diễn ra từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 5 năm 1942.

    Tầm quan trọng của trận chiến này bắt nguồn từ hai yếu tố. Thứ nhất, đây là trận chiến đầu tiên trong lịch sử mà các tàu sân bay đối đầu với nhau. Thứ hai, vì nó báo hiệu sự bắt đầu kết thúc can thiệp của Nhật Bản trong Thế chiến 2.

    Sau trận chiến Biển San hô, quân Đồng minh phát hiện ra rằng các vị trí của Nhật Bản ở Nam Thái Bình Dương rất dễ bị tổn thương nên họ đã nghĩ ra chiến dịch Guadalcanal để làm suy yếu hệ thống phòng thủ của họ ở đó. Chiến dịch này, cùng với Chiến dịch New Guinea bắt đầu vào tháng 1 năm 1942 và tiếp tục cho đến khi kết thúc chiến tranh, là công cụ buộc quân Nhật đầu hàng.

    Trận Midway (1942)

    Đảo san hô vòng Midway là một khu vực đảo cực nhỏ và biệt lập ở giữa Thái Bình Dương. Đây cũng là địa điểm mà các lực lượng Nhật Bản đã phải hứng chịu thất bại thảm khốc nhất dưới tay Hải quân Hoa Kỳ.

    Đô đốc Yamamoto đãdự kiến ​​sẽ dụ hạm đội Mỹ, bao gồm 4 hàng không mẫu hạm, vào một cái bẫy được chuẩn bị kỹ lưỡng. Nhưng điều mà anh ta không biết là những người phá mã của Mỹ đã chặn và giải mã nhiều thông điệp của Nhật Bản, đồng thời họ đã biết chính xác vị trí của hầu hết các tàu Nhật Bản.

    Cuộc phản kích do Hải quân Hoa Kỳ lên kế hoạch đã thành công và ba hàng không mẫu hạm của Nhật bị đánh chìm. Gần 250 máy bay Nhật Bản cũng bị mất và cục diện cuộc chiến đã thay đổi theo hướng có lợi cho Đồng minh.

    Trận El Alamein (tháng 7 năm 1942 và tháng 10 – tháng 11 năm 1942)

    Một số những trận chiến quan trọng của Thế chiến 2 đã diễn ra ở Bắc Phi, không phải bằng máy bay và tàu, mà bằng xe tăng và bộ binh. Sau khi chinh phục Libya, lực lượng phe Trục dưới sự lãnh đạo của Thống chế Erwin Rommel đã lên kế hoạch tiến quân vào Ai Cập.

    Vấn đề là Sa mạc Sahara và những đụn cát trải dài ngăn cách Tripoli với Alexandria. Khi quân Trục tiến lên, họ gặp ba trở ngại chính ở El Alamein, cách các thành phố và hải cảng quan trọng nhất của Ai Cập – người Anh khoảng 100 km, điều kiện khắc nghiệt của sa mạc và thiếu nguồn cung cấp nhiên liệu thích hợp cho xe tăng. 3>

    Trận El Alamein đầu tiên kết thúc trong bế tắc, với việc Rommel đào sâu để tập hợp lại thành một vị trí phòng thủ sau khi chịu 10.000 thương vong. Người Anh mất 13.000 người. Tháng 10 lại tiếp tục chiến đấu,trùng hợp với cuộc xâm lược Bắc Phi thuộc Pháp của quân Đồng minh, và lần này dưới quyền của Trung tướng Bernard Montgomery. Montgomery đẩy quân Đức quyết liệt ở El Alamein, buộc chúng phải rút lui về Tunisia. Trận chiến là một chiến thắng to lớn của quân Đồng minh, vì nó báo hiệu sự bắt đầu kết thúc của Chiến dịch Sa mạc phía Tây. Nó đã chấm dứt một cách hiệu quả mối đe dọa của việc các thế lực phe Trục chiếm Ai Cập, các mỏ dầu ở Trung Đông và Ba Tư, cũng như Kênh đào Suez.

    Trận Stalingrad (tháng 8 năm 1942 – tháng 2 năm 1943)

    Trong trận của Stalingrad, các cường quốc phe Trục, bao gồm Đức và Đồng minh, đã chiến đấu với Liên Xô để chiếm Stalingrad, một thành phố có vị trí chiến lược ở miền Nam nước Nga (nay là Volgograd).

    Stalingrad là một trung tâm công nghiệp và giao thông quan trọng, có vị trí chiến lược để cho phép bất cứ ai kiểm soát thành phố tiếp cận với các giếng dầu Kavkaz. Điều hợp lý là phe Trục muốn sớm giành quyền kiểm soát thành phố trong cuộc xâm lược Liên Xô. Nhưng Liên Xô đã chiến đấu ác liệt trên đường phố Stalingrad, bao phủ bởi đống đổ nát sau các đợt ném bom dữ dội của Không quân Đức.

    Mặc dù quân Đức không được huấn luyện để cận chiến, cũng như chiến tranh đô thị, nhưng họ đã bù đắp được điều này bằng quân số , vì liên tục có một luồng quân tiếp viện đến từ phía tây.

    Hồng quân Liên Xô đã cố gắng gài bẫy quân Đức trong thành phố. Tháng 11, Stalin phát động chiến dịchchiến dịch nhắm vào quân đội Romania và Hungary, bảo vệ hai bên sườn của quân Đức đang tấn công Stalingrad. Điều này dẫn đến việc quân Đức bị cô lập ở Stalingrad, và cuối cùng bị đánh bại sau năm tháng, một tuần và ba ngày chiến đấu.

    Chiến dịch quần đảo Solomon (tháng 6 – tháng 11 năm 1943)

    Trong suốt nửa đầu năm 1942, quân đội Nhật Bản chiếm đóng Bougainville, ở New Guinea và Quần đảo Solomon của Anh, ở Nam Thái Bình Dương.

    Quần đảo Solomon là một trung tâm liên lạc và tiếp tế quan trọng, vì vậy quân Đồng minh chưa sẵn sàng để cho phép họ đi mà không cần chiến đấu. Họ tiến hành phát triển một cuộc phản công ở New Guinea, cô lập một căn cứ của Nhật Bản tại Rabaul (Papua, New Guinea), và đổ bộ lên Guadalcanal và một số đảo khác vào ngày 7 tháng 8 năm 1942.

    Những cuộc đổ bộ này đã mở đầu cho một loạt trận chiến tàn khốc giữa Đồng minh và Đế quốc Nhật Bản, cả ở Guadalcanal và ở miền trung và miền bắc Quần đảo Solomon, trên và xung quanh đảo New Georgia và đảo Bougainville. Được biết là sẽ chiến đấu đến người cuối cùng, quân Nhật tiếp tục giữ một số quần đảo của Quần đảo Solomon cho đến khi kết thúc chiến tranh.

    Trận Kursk (tháng 7 – tháng 8 năm 1943)

    Như ví dụ minh họa trước Trận Stalingrad, chiến đấu ở Mặt trận phía Đông có xu hướng ác liệt và không ngừng hơn những nơi khác. Quân Đức đã phát động một chiến dịch tấn công mà họ gọi là Chiến dịch Thành cổ, vớimục tiêu chiếm khu vực Kursk thông qua nhiều cuộc tấn công đồng thời.

    Mặc dù quân Đức chiếm thế thượng phong, nhưng về mặt chiến lược, họ đã trì hoãn cuộc tấn công trong khi chờ vũ khí được chuyển đến từ Berlin. Điều này giúp Hồng quân có thời gian để xây dựng hệ thống phòng thủ của họ, vốn tỏ ra hiệu quả cao trong việc ngăn chặn quân Đức trên đường đi của họ. Tổn thất nặng nề về người (165.000) và xe tăng (250) của Đức đảm bảo rằng Hồng quân vẫn giữ lợi thế trong suốt phần còn lại của cuộc chiến.

    Trận chiến Kursk là lần đầu tiên trong Thế chiến thứ hai khi một người Đức cuộc tấn công chiến lược đã bị dừng lại trước khi nó có thể xuyên thủng hàng phòng ngự của kẻ thù.

    Trận Anzio (tháng 1 – tháng 6 năm 1944)

    Quân Đồng minh tiến vào nước Ý phát xít vào năm 1943, nhưng gặp phải sự kháng cự đáng kể. Không thể tiến xa hơn, Thiếu tướng John P. Lucas đã nghĩ ra một cuộc đổ bộ gần các thị trấn Anzio và Nettuno, nơi phụ thuộc rất nhiều vào khả năng di chuyển nhanh chóng và không bị phát hiện của họ.

    Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp của các bãi biển được bảo vệ mạnh mẽ bởi các lực lượng Đức và Ý. Lúc đầu, quân Đồng minh không thể xâm nhập thị trấn, nhưng cuối cùng đã vượt qua được chỉ nhờ số lượng quân tiếp viện tuyệt đối mà họ triệu tập: hơn 100.000 người đã được triển khai để đảm bảo chiến thắng tại Anzio, điều này sẽ cho phép quân Đồng minh tiến gần hơn đến thành phố. Rome.

    Chiến dịch Overlord (Tháng 6 – Tháng 81944)

    Quân lính tiến vào bãi biển Omaha từ USS Samuel Chase

    D-Day có thể là sự kiện chiến tranh lịch sử được tôn vinh nhất trong điện ảnh và tiểu thuyết, và đúng như vậy. Quy mô tuyệt đối của quân đội tham gia, các quốc gia, chỉ huy, sư đoàn và đại đội khác nhau tham gia Cuộc đổ bộ Normandy, những quyết định khó khăn phải đưa ra và những trò lừa bịp phức tạp được thiết kế để đánh lừa quân Đức, khiến cuộc xâm lược nước Pháp bởi quân Đồng minh là một bước ngoặt trong lịch sử.

    Chiến dịch Overlord được Churchill chọn để đặt tên cho cuộc xâm lược này, được lên kế hoạch cẩn thận và thực hiện một cách tỉ mỉ. Những trò lừa bịp đã phát huy tác dụng và quân Đức đã chuẩn bị rất kém để chống lại cuộc đổ bộ của hơn hai triệu quân Đồng minh vào miền Bắc nước Pháp. Thương vong của cả hai bên lên tới hơn một phần tư triệu mỗi bên và hơn 6.000 máy bay đã bị bắn hạ.

    Hầu hết trong số này bị bắn hạ ở các bãi biển, có biệt danh là Utah, Omaha, Gold, Sword và Juno, nhưng vào cuối ngày đầu tiên (6 tháng 6), quân Đồng minh đã giành được chỗ đứng ở hầu hết các khu vực quan trọng. Ba tuần sau, họ chiếm được cảng Cherbourg, và vào ngày 21 tháng 7, quân Đồng minh đã kiểm soát được thành phố Caen. Paris sẽ thất thủ vào ngày 25 tháng 8.

    Trận chiến Bulge (tháng 12 năm 1944 – tháng 1 năm 1945)

    Sau cuộc xâm lược quy mô lớn vào Normandy của quân đội Anh, Canada và Mỹ, Hitler đã chuẩn bị một

    Stephen Reese là một nhà sử học chuyên về các biểu tượng và thần thoại. Anh ấy đã viết một số cuốn sách về chủ đề này, và tác phẩm của anh ấy đã được xuất bản trên các tạp chí và tạp chí trên khắp thế giới. Sinh ra và lớn lên ở London, Stephen luôn yêu thích lịch sử. Khi còn nhỏ, anh dành hàng giờ để nghiền ngẫm các văn bản cổ và khám phá những tàn tích cũ. Điều này đã khiến ông theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu lịch sử. Niềm đam mê của Stephen với các biểu tượng và thần thoại bắt nguồn từ niềm tin của ông rằng chúng là nền tảng của văn hóa nhân loại. Ông tin rằng bằng cách hiểu những huyền thoại và truyền thuyết này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới của mình.