Chiến tranh Việt Nam – Nó bắt đầu như thế nào và nguyên nhân dẫn đến kết thúc của nó

  • Chia Sẻ Cái Này
Stephen Reese

    Chiến tranh Việt Nam, còn được gọi là Chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam, là cuộc xung đột giữa các lực lượng của miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Nó được hỗ trợ bởi quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của họ và kéo dài từ năm 1959 đến năm 1975.

    Mặc dù chiến tranh bắt đầu vào năm 1959, nhưng nó là sự tiếp nối của một cuộc nội chiến bắt đầu vào năm 1954 khi Hồ Chí Minh tuyên bố mong muốn thành lập một nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở hai miền Nam Bắc Việt Nam, vốn sẽ bị Pháp và sau này là các nước khác phản đối.

    Nguyên tắc Domino

    l chân dung của Dwight D .Eisenhower. PD.

    Cuộc chiến bắt đầu với giả định rằng nếu một quốc gia rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản, rất có thể các quốc gia khác ở Đông Nam Á sẽ chịu chung số phận. Tổng thống Dwight D. Eisenhower coi đó là “nguyên tắc domino”.

    Năm 1949, Trung Quốc trở thành một quốc gia cộng sản. Theo thời gian, miền Bắc Việt Nam cũng nằm dưới sự cai trị của chủ nghĩa cộng sản. Sự lan rộng đột ngột của chủ nghĩa cộng sản đã khiến Hoa Kỳ đề nghị hỗ trợ chính phủ miền Nam Việt Nam, cung cấp tiền, vật tư và lực lượng quân sự trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản.

    Dưới đây là một số sự thật thú vị nhất về Chiến tranh Việt Nam mà có thể bạn chưa từng nghe nói đến:

    Chiến dịch Sấm Rền

    Rolling Thunder là mật danh của chiến dịch không quân phối hợp giữa Không quân, Lục quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ chống lại Bắc Việt Nam, và được tiến hành vào giữa tháng 31965 và tháng 10 năm 1968.

    Cuộc hành quân bắt đầu vào ngày 2 tháng 3 năm 1965 bằng trận mưa bom xuống các mục tiêu quân sự ở miền Bắc Việt Nam và tiếp tục cho đến ngày 31 tháng 10 năm 1968. Mục tiêu là tiêu diệt ý chí tiếp tục chiến đấu của miền Bắc Việt Nam bằng cách từ chối tiếp tế và phá hủy khả năng huy động binh lính của họ.

    Sự ra đời của Đường mòn Hồ Chí Minh

    Đường mòn Hồ Chí Minh là một mạng lưới các con đường được xây dựng trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam của Quân đội Bắc Việt. Mục đích của nó là vận chuyển hàng tiếp tế từ miền Bắc Việt Nam cho các chiến binh Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam. Nó được tạo thành từ nhiều con đường kết nối với nhau đi qua địa hình rừng rậm dày đặc. Điều này giúp ích rất nhiều cho việc vận chuyển các mặt hàng thiết yếu nhờ có rừng rậm che chắn chống lại máy bay ném bom và lính bộ binh.

    Không phải lúc nào cũng nhìn thấy các con đường mòn, vì vậy các binh sĩ phải cẩn thận khi điều hướng chúng. Có rất nhiều mối nguy hiểm trên những con đường mòn, bao gồm mìn và các thiết bị nổ khác do cả hai bên để lại sau chiến tranh. Những người lính đang cố gắng dò tìm những con đường mòn này cũng sợ bẫy.

    Bẫy bom khiến cuộc sống của những người lính trở nên khốn khổ

    Việt Cộng thường đặt những cái bẫy đáng sợ để quân đội Hoa Kỳ truy đuổi chậm lại những tiến bộ. Chúng thường dễ làm nhưng được tạo ra để gây sát thương nhiều nhất có thể.

    Một ví dụ về những cái bẫy này là gậy Punji quỷ quyệt. Họ đãđược làm bằng cọc tre vót nhọn, sau đó được cắm vào các lỗ trên mặt đất. Sau đó, các lỗ được che phủ bằng một lớp cành cây hoặc tre mỏng rồi ngụy trang khéo léo để tránh bị nghi ngờ. Bất kỳ người lính nào không may bước vào bẫy sẽ bị đâm vào chân. Tệ hơn nữa, những chiếc cọc thường phủ đầy phân và chất độc, vì vậy những người bị thương có nhiều khả năng bị nhiễm trùng nặng hơn.

    Các loại bẫy khác được tạo ra để khai thác xu hướng nhặt chiến lợi phẩm của binh lính. Chiến thuật này đặc biệt hiệu quả khi được sử dụng trên các lá cờ vì quân đội Hoa Kỳ thích hạ cờ của kẻ thù. Chất nổ sẽ phát ra bất cứ khi nào ai đó cố gắng gỡ bỏ lá cờ.

    Những cái bẫy này không phải lúc nào cũng nhằm giết một người lính. Mục đích của họ là làm thương tật hoặc vô hiệu hóa ai đó để làm chậm quân đội Mỹ và cuối cùng làm tổn hại đến nguồn lực của họ vì những người bị thương cần được điều trị. Việt Cộng nhận ra rằng một người lính bị thương làm chậm kẻ thù hơn nhiều so với một người lính đã chết. Vì vậy, họ đã làm cho những cái bẫy của mình trở nên nguy hiểm nhất có thể.

    Một ví dụ về cái bẫy khủng khiếp được gọi là cái chùy. Khi dây bẫy được kích hoạt, một quả cầu bằng gỗ có lỗ bằng gai kim loại sẽ rơi xuống, đâm xuyên qua nạn nhân không nghi ngờ gì.

    Chiến dịch Ranch Hand gây ra ung thư và dị tật bẩm sinh

    Ngoài bẫy, các chiến binh Việt Nam cũng sử dụng rừng đến mức tối đa của chúng.Họ đã sử dụng nó để ngụy trang một cách hiệu quả và sau này, chiến thuật này sẽ tỏ ra hữu ích trong chiến tranh du kích. Quân đội Hoa Kỳ, trong khi chiếm thế thượng phong trong công nghệ chiến tranh và huấn luyện, đã phải vật lộn với chiến thuật đánh và chạy. Nó cũng làm tăng thêm gánh nặng tâm lý cho những người lính, vì họ sẽ phải thường xuyên cảnh giác với môi trường xung quanh để tránh bất kỳ cuộc tấn công nào khi ở trong rừng.

    Để giải quyết mối lo ngại này, Nam Việt Nam đã yêu cầu sự hỗ trợ của Hoa Kỳ loại bỏ những tán lá để lấy đi lợi thế của kẻ thù ẩn náu trong rừng rậm. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1961, Chiến dịch Ranch Hand bắt đầu được Tổng thống John F. Kennedy bật đèn xanh. Chiến dịch này nhằm mục đích phá rừng để ngăn không cho Việt Cộng ẩn náu và làm tê liệt nguồn lương thực từ mùa màng của chúng.

    Một trong những chất diệt cỏ được sử dụng nhiều nhất vào thời điểm đó là “Chất độc màu da cam”. Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ đã tiến hành các nghiên cứu phát hiện ra tác hại của các hóa chất. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng một sản phẩm phụ của việc sử dụng nó có thể gây ung thư và dị tật bẩm sinh. Do phát hiện này, hoạt động đã kết thúc, nhưng đã quá muộn. Hơn 20 triệu gallon hóa chất đã được rải trên một khu vực rộng lớn trong khi chiến dịch đang diễn ra.

    Những người tiếp xúc với chất độc màu da cam bị bệnh tật và tàn tật. Theo báo cáo chính thức từViệt Nam, khoảng 400.000 người đã bị chết hoặc thương tật vĩnh viễn do hóa chất gây ra. Bên cạnh đó, vì hóa chất này có thể tồn tại bên trong cơ thể con người trong nhiều thập kỷ, nên ước tính có 2.000.000 người mắc bệnh do phơi nhiễm và nửa triệu trẻ sinh ra bị dị tật bẩm sinh do tổn thương gen mà chất độc màu da cam gây ra.

    Napalm Biến Việt Nam Thành Địa Ngục Lửa

    Bên cạnh việc trút xuống các hóa chất gây ung thư từ máy bay, quân đội Hoa Kỳ còn thả một số lượng lớn bom. Các phương pháp ném bom truyền thống dựa vào kỹ năng của phi công để thả bom vào mục tiêu chính xác đồng thời tránh hỏa lực của đối phương vì chúng phải bay càng gần càng tốt để chính xác. Một phương pháp khác là thả nhiều quả bom vào một khu vực ở độ cao lớn hơn. Cả hai đều không hiệu quả vì các võ sĩ Việt Nam thường ẩn mình trong rừng rậm. Đó là lý do tại sao Hoa Kỳ phải dùng đến bom napalm.

    Napalm là hỗn hợp của gel và nhiên liệu được thiết kế để dễ dàng gây cháy và lan truyền lửa. Nó được sử dụng trên các khu rừng và các địa điểm có thể là nơi các chiến binh Việt Nam ẩn náu. Chất bốc lửa này có thể dễ dàng thiêu rụi một vùng đất rộng lớn và thậm chí nó có thể cháy trên mặt nước. Nó loại bỏ nhu cầu về độ chính xác chính xác để thả bom vì họ chỉ cần thả một thùng bom napalm và để ngọn lửa thực hiện công việc của mình. Tuy nhiên, dân thường cũng thường bị ảnh hưởng bởingọn lửa không thể kiểm soát được.

    Một trong những bức ảnh mang tính biểu tượng nhất về chiến tranh Việt Nam là hình ảnh một cô gái khỏa thân chạy trốn khỏi một cuộc tấn công bằng bom napalm. Hai dân làng và hai anh em họ của cô gái đã thiệt mạng. Cô ấy đang chạy trần truồng vì quần áo của cô ấy đã bị bỏng bởi bom napalm, vì vậy cô ấy đã phải xé chúng ra. Bức ảnh này đã gây tranh cãi và phản đối rộng rãi các nỗ lực tham chiến ở Việt Nam.

    Các vấn đề chính về vũ khí

    Những khẩu súng được cấp cho quân đội Hoa Kỳ có nhiều vấn đề. Súng trường M16 được hứa hẹn sẽ có nhiều uy lực hơn trong khi trọng lượng nhẹ, nhưng nó đã không thể phát huy được những điểm mạnh được cho là của nó trên chiến trường.

    Hầu hết các cuộc chạm trán đều diễn ra trong rừng rậm, vì vậy súng dễ bị tích tụ bụi bẩn. cuối cùng khiến chúng bị kẹt. Nguồn cung cấp dịch vụ vệ sinh cũng hạn chế nên việc vệ sinh chúng thường xuyên là một thách thức.

    Những thất bại kiểu đó trong lúc căng thẳng của trận chiến có thể nguy hiểm và thường gây tử vong. Sau đó, những người lính buộc phải dựa vào súng AK 47 của kẻ thù làm vũ khí chính do độ tin cậy của chúng. Ngoài ra còn có một thị trường ngầm vũ khí của kẻ thù để phục vụ cho những người lính không muốn đánh cược số phận của mình với những khẩu súng trường M16 bị lỗi.

    Hầu hết những người lính thực sự tình nguyện

    Trái ngược với niềm tin phổ biến rằng dự thảo quân sự nhắm mục tiêu không công bằng nhân khẩu học dễ bị tổn thương trong chiến tranh, số liệu thống kê cho thấy rằng dự thảo đã thực sựcông bằng. Các phương pháp mà họ sử dụng để vẽ bản nháp là hoàn toàn ngẫu nhiên. 88,4% nam giới phục vụ tại Việt Nam là người da trắng, 10,6% là người da đen và 1% là các chủng tộc khác. Khi nói đến cái chết, 86,3% nam giới tử vong là người da trắng, 12,5% là người da đen và 1,2% là người thuộc các chủng tộc khác.

    Mặc dù đúng là một số người đã làm mọi cách có thể để tránh cái chết quân dịch, 2/3 quân nhân tình nguyện tham chiến. Chỉ có 1.728.344 người được nhập ngũ trong Chiến tranh Việt Nam, so với 8.895.135 người trong Thế chiến thứ hai.

    Sự điên rồ của McNamara

    Bên cạnh việc nhập ngũ ngẫu nhiên thông thường trong chiến tranh, còn có một quy trình tuyển chọn khác mà đang diễn ra. Robert McNamara đã công bố dự án 100000 vào những năm 1960, dường như để giải quyết tình trạng bất bình đẳng cho những cá nhân thiệt thòi. Nhóm nhân khẩu học này bao gồm những người có năng lực thể chất và tinh thần dưới mức trung bình.

    Họ là những người phải chịu trách nhiệm trong cuộc chiến, vì vậy họ thường được tuyển dụng để tránh xa nó. Mục tiêu ban đầu của dự án là cung cấp cho những cá nhân này những kỹ năng mới mà họ có thể sử dụng trong đời sống dân sự. Mặc dù nó có mục đích tốt nhưng nó đã vấp phải sự chỉ trích nặng nề và các cựu chiến binh trở về đã không thể kết hợp các kỹ năng mà họ đã học được trong cuộc sống dân sự của mình.

    Chương trình bị coi là bóc lột và là một thất bại lớn. Trong con mắt của công chúng, những cá nhân được liệt kê làvừa được sử dụng làm bia đỡ đạn nên hình ảnh của quân đội Mỹ đã bị ảnh hưởng nặng nề. Phải mất nhiều năm nó mới lấy lại được lòng tin của công chúng.

    Số người chết

    Những người di tản trên một chiếc trực thăng của Air America trước khi Sài Gòn rơi vào tay quân đội Bắc Việt.

    Người ta ước tính rằng có tới 3 triệu dân thường, các chiến binh Bắc Việt và Việt Cộng đã thiệt mạng trong cuộc xung đột. Ước tính chính thức về số người chết này không được Việt Nam công bố cho công chúng cho đến năm 1995. Sinh kế của người dân bị tàn phá nặng nề vì bị ném bom liên tục, sử dụng bom napalm và phun thuốc diệt cỏ độc hại. Những tác động này vẫn còn được cảm nhận cho đến ngày nay.

    Tại Washington, D.C., Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam được dựng lên vào năm 1982 để tri ân những người đã hy sinh hoặc mất tích khi phục vụ tại Việt Nam. Nó chứa tên của 57.939 nhân viên quân sự Hoa Kỳ và danh sách này đã được mở rộng kể từ đó để bao gồm tên của những người khác ban đầu không được đưa vào.

    Kết luận

    The Chiến tranh Việt Nam đã khiến hàng triệu người thiệt mạng và là cuộc xung đột duy nhất, cho đến lúc đó, đã kết thúc với thất bại cho quân đội Mỹ. Nó tiếp tục trong nhiều năm và là một hoạt động tốn kém và gây chia rẽ cho người Mỹ, dẫn đến các cuộc biểu tình phản chiến và tình trạng hỗn loạn ở trong nước.

    Ngay cả ngày nay, câu hỏi ai là người chiến thắng trong cuộc chiến vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng. Có lập luận cho cả hai bên, và trong khiHoa Kỳ cuối cùng đã rút lui, họ chịu ít thương vong hơn kẻ thù và họ đã đánh bại lực lượng cộng sản trong hầu hết các trận đánh chính của cuộc chiến. Cuối cùng, mục tiêu của Mỹ nhằm hạn chế chủ nghĩa cộng sản trong khu vực đã thất bại khi cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam cuối cùng đã được thống nhất dưới một chính phủ cộng sản vào năm 1976.

    Stephen Reese là một nhà sử học chuyên về các biểu tượng và thần thoại. Anh ấy đã viết một số cuốn sách về chủ đề này, và tác phẩm của anh ấy đã được xuất bản trên các tạp chí và tạp chí trên khắp thế giới. Sinh ra và lớn lên ở London, Stephen luôn yêu thích lịch sử. Khi còn nhỏ, anh dành hàng giờ để nghiền ngẫm các văn bản cổ và khám phá những tàn tích cũ. Điều này đã khiến ông theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu lịch sử. Niềm đam mê của Stephen với các biểu tượng và thần thoại bắt nguồn từ niềm tin của ông rằng chúng là nền tảng của văn hóa nhân loại. Ông tin rằng bằng cách hiểu những huyền thoại và truyền thuyết này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới của mình.