Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và tại sao họ quan trọng

  • Chia Sẻ Cái Này
Stephen Reese

    Triết học là một cách để chúng ta thử và nắm bắt sự phức tạp to lớn của thế giới mà chúng ta đang sống. Con người luôn đặt ra những câu hỏi lớn. Điều gì làm nên con người chúng ta? Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Nguồn gốc của mọi thứ là gì và nhân loại sẽ đi về đâu?

    Vô số xã hội và nền văn minh đã cố gắng trả lời những câu hỏi này. Chúng tôi thấy những nỗ lực này trong văn học, điêu khắc, khiêu vũ, âm nhạc, điện ảnh, v.v. Có lẽ những nỗ lực ban đầu hiệu quả nhất nhằm loại bỏ bức màn tri thức ẩn giấu đã xảy ra ở Hy Lạp, nơi một loạt trí thức dám giải quyết một số câu hỏi cơ bản nhất mà con người từng mạo hiểm đặt ra.

    Hãy đọc tiếp khi chúng tôi đi xuống phía dưới con đường của các nhà triết học Hy Lạp nổi tiếng nhất và đứng vào vị trí của họ khi họ đưa ra câu trả lời cho một số câu hỏi cấp thiết nhất của cuộc sống.

    Thales

    Minh họa về Thales. PĐ.

    Thales được coi là một trong những triết gia đầu tiên của Hy Lạp cổ đại và theo truyền thống được cho là một trong những người Hy Lạp đầu tiên xem xét tầm quan trọng của lý trí và bằng chứng. Thales là nhà triết học Hy Lạp đầu tiên cố gắng mô tả vũ trụ. Trên thực tế, anh ấy được ghi nhận là người đã tạo ra từ Cosmos .

    Thales sống ở Miletus, một thành phố nằm trên ngã tư của các nền văn minh, nơi anh ấy được tiếp xúc với nhiều kiến ​​thức trong suốt cuộc đời mình. Thales nghiên cứu hình học và sử dụng lý luận suy diễn để thử vàđạt được một số khái quát chung.

    Ông đã dũng cảm khởi xướng sự phát triển triết học bằng cách tuyên bố rằng thế giới không thể được tạo ra bởi một đấng thần thánh và rằng toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ arche , một nguyên lý sáng tạo mà ông coi là nước. Thales tin rằng thế giới là một thứ, không phải là tập hợp của nhiều thứ khác nhau.

    Anaximander

    Chi tiết khảm về Anaximander. PĐ.

    Anaximander tiếp bước Thales. Ông là một chính khách giàu có và vào thời điểm đó là một trong những người Hy Lạp cổ đại đầu tiên cố gắng vẽ bản đồ thế giới và phát triển một công cụ đo thời gian.

    Anaximander đã cố gắng trình bày câu trả lời của riêng mình về nguồn gốc của thế giới và yếu tố cơ bản tạo ra mọi thứ. Anaximander tin rằng nguyên tắc mà mọi thứ bắt nguồn từ đó được gọi là Apeiron .

    Apeiron là một chất không xác định mà tất cả các phẩm chất như nóng và lạnh, khô và ẩm đều bắt nguồn từ đó. Anaximander tiếp tục với logic của Thales và phủ nhận rằng vũ trụ được tạo ra bởi bất kỳ loại thần thánh nào, cho rằng nguồn gốc của vũ trụ là tự nhiên.

    Anaximenes

    Hình minh họa của Anaximenes. PĐ.

    Trường phái Miletus kết thúc với Anaximenes, người đã viết một cuốn sách về tự nhiên, trong đó ông trình bày ý tưởng của mình về bản chất của vũ trụ.

    Không giống nhưThales và Anaximander, Anaximenes tin rằng nguyên tắc sáng tạo mà mọi thứ được thiết lập là không khí.

    Với cái chết của Anaximenes, triết học Hy Lạp sẽ chuyển từ trường phái tự nhiên và phát triển thành nhiều trường phái tư duy khác nhau. chỉ giải quyết nguồn gốc của vũ trụ mà còn của xã hội loài người nữa.

    Pythagoras

    Pythagoras thường được coi là một nhà toán học, nhưng toán học của ông đan xen với một số quan sát triết học.

    Pythagoras có niềm tin nổi tiếng rằng toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ các con số và rằng mọi thứ tồn tại thực ra là sự phản ánh vật lý của các mối quan hệ hình học giữa các con số.

    Mặc dù Pythagoras không nghiên cứu nhiều về nguồn gốc của vũ trụ, nhưng ông coi các con số là nguyên tắc tổ chức và sáng tạo. Thông qua các con số, Pythagoras thấy rằng toàn bộ vũ trụ nằm trong sự hài hòa hình học hoàn hảo.

    Socrates

    Socrates sống ở Athens vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên và đi khắp Hy Lạp, nơi ông thu thập các tác phẩm của mình. kiến thức sâu rộng về thiên văn học, hình học và vũ trụ học.

    Ông là một trong những nhà triết học Hy Lạp đầu tiên hướng cái nhìn về sự sống trên Trái đất và cách con người sống trong các xã hội. Ông hiểu rất rõ về chính trị và được coi là một trong những người đặt nền móng cho triết học chính trị.

    Ông rất thẳng thắn và không được ưa chuộng trong giới thượng lưu. Anh ấy thường được dán nhãn làcố gắng làm hư hỏng thanh niên và không tôn trọng các vị thần thành phố. Socrates tin rằng chế độ dân chủ và các hình thức chính phủ khác là vô dụng và tin rằng các xã hội nên được lãnh đạo bởi các vị vua-triết gia.

    Socrates đã phát triển một phương pháp lập luận cụ thể được gọi là Socrates phương pháp trong đó ông sẽ cố gắng chỉ ra những mâu thuẫn trong lập luận và bác bỏ những gì vào thời điểm đó được cho là kiến ​​thức cuối cùng đã được chứng minh

    Plato

    Plato đã sống và làm việc ở Athens một thế hệ sau Socrates. Plato là người sáng lập trường phái tư tưởng Platon và là một trong những nhân vật hàng đầu trong lịch sử triết học của thế giới phương Tây.

    Plato là người truyền bá đối thoại thành văn và các hình thức biện chứng trong triết học và đóng góp nổi tiếng nhất của ông đối với triết học phương tây là lý thuyết về các hình thức. Trong thế giới quan của mình, Plato coi toàn bộ thế giới vật chất được tạo ra và duy trì bởi các hình thức hoặc ý tưởng tuyệt đối, trừu tượng và phi thời gian không bao giờ thay đổi.

    Những ý tưởng hoặc hình thức này không có cơ thể vật chất và tồn tại bên ngoài thế giới con người . Plato tin rằng chính những ý tưởng này nên là trọng tâm của các nghiên cứu triết học.

    Mặc dù thế giới ý tưởng tồn tại độc lập với thế giới của chúng ta, nhưng Plato tin rằng ý tưởng áp dụng cho các đối tượng trong thế giới vật chất. Đây là cách ý tưởng về “màu đỏ” trở nên phổ biến vì nó có thể ám chỉ nhiều điều khác nhau. Nókhông phải là màu đỏ thực sự, mà là ý tưởng về màu đỏ có thể quy cho các vật thể trong thế giới của chúng ta.

    Plato nổi tiếng với triết lý chính trị của mình và ông tin tưởng một cách cuồng nhiệt rằng một xã hội tốt nên được điều hành bởi triết gia -những vị vua thông minh, lý trí, yêu tri thức và trí tuệ.

    Để xã hội vận hành tốt, các vị vua-triết gia nên được hỗ trợ bởi những người công nhân và người bảo vệ, những người không cần lo lắng về trí tuệ và làm phức tạp xã hội quyết định nhưng là những người cần thiết trong việc duy trì xã hội.

    Aristotle

    Aristotle là một triết gia Athen khác chịu ảnh hưởng nặng nề của Plato. Aristotle cuối cùng đã trở thành thầy của Alexander Đại đế và để lại dấu ấn vô cùng lớn đối với các chủ đề như logic, hùng biện và siêu hình học.

    Aristotle thường được miêu tả là một trong những nhà phê bình lớn nhất của Plato và triết lý của ông thường được mô tả là nguyên nhân gây ra sự chia rẽ lớn trong triết học tây phương thành các phái Aristoteles và Platon. Ông đặt con người trong lĩnh vực chính trị và có câu nói nổi tiếng rằng con người là động vật chính trị.

    Triết lý của ông xoay quanh tầm quan trọng của tri thức và cách đạt được tri thức. Đối với Aristotle, mọi tri thức đều phải dựa trên logic và coi logic là cơ sở của lý luận.

    Trái ngược với Plato, người cho rằng bản chất của mọi vật thể là ý niệm tồn tại bên ngoài vật thể đó, Aristotle đã tìm ra chúng để cùng tồn tại.Aristotle bác bỏ ý kiến ​​cho rằng linh hồn con người tồn tại bên ngoài cơ thể.

    Aristotle đã mô tả một cách nổi tiếng bản chất của sự thay đổi trong các vật thể thông qua các nguyên nhân khác nhau. Ông đề cập đến nguyên nhân vật chất mô tả vật liệu mà từ đó một vật thể được tạo ra, nguyên nhân hình thức giải thích cách sắp xếp vật chất, nguyên nhân hiệu quả giải thích nơi một vật thể và vật chất của vật thể đó đến từ đâu, và nguyên nhân cuối cùng là mục đích của một đối tượng. Tất cả những điều này cùng nhau tạo nên một đối tượng.

    Diogenes

    Diogenes trở nên khét tiếng vì đã phủ nhận mọi quy ước và chuẩn mực xã hội của Athens. Anh ấy rất chỉ trích xã hội Athen và tập trung cuộc sống của mình vào sự đơn giản. Diogenes không thấy ích lợi gì khi cố gắng hòa nhập vào một xã hội mà ông coi là thối nát và không có giá trị cũng như ý nghĩa. Anh ấy nổi tiếng là ngủ và ăn ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào anh ấy thấy phù hợp, và anh ấy tin rằng mình là công dân của thế giới, không phải của bất kỳ thành phố hay tiểu bang nào. Đối với Diogenes, sự đơn giản là đức tính tối thượng trong cuộc sống và bắt đầu trường phái hoài nghi.

    Euclid xứ Magara

    Euclid xứ Magara là một triết gia tiếp bước Socrates, người thầy của ông. Euclid tin vào điều tốt đẹp tối cao là động lực thúc đẩy mọi thứ và từ chối tin rằng có bất cứ điều gì trái ngược với điều tốt đẹp. Ông hiểu điều tốt là kiến ​​thức vĩ đại nhất.

    Euclid nổi tiếng vì những đóng góp của ông cho đối thoại vàcuộc tranh luận nổi tiếng mà ông đã chỉ ra những hậu quả vô lý có thể rút ra từ lập luận của đối thủ, do đó gián tiếp chứng minh quan điểm của chính mình.

    Zeno of Citium

    Zeno of Citium được coi là người sáng lập ra chủ nghĩa khắc kỷ. Ông đã dạy môn tu luyện ở Athens, và ông đặt niềm tin của mình trên cơ sở do những người hoài nghi trước ông đặt ra.

    Chủ nghĩa khắc kỷ như Zeno tuyên bố nhấn mạnh đến lòng tốt và đức hạnh bắt nguồn từ sự an tâm của một người. Chủ nghĩa khắc kỷ nhấn mạnh tầm quan trọng của tự nhiên và sống phù hợp với nó.

    Mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa khắc kỷ là đạt được Eudaimonia, , được dịch một cách lỏng lẻo là hạnh phúc hoặc phúc lợi, sự thịnh vượng của con người hoặc một ý nghĩa chung về hạnh phúc.

    Tổng kết

    Các triết gia Hy Lạp đã thực sự khởi xướng một số bước phát triển trí tuệ cơ bản nhất của tư tưởng con người. Họ hỏi nguồn gốc của vũ trụ là gì và đâu là những đức hạnh tối thượng mà chúng ta nên cố gắng đạt được. Hy Lạp cổ đại là nơi giao thoa của việc chia sẻ ý tưởng và kiến ​​thức, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi một số nhà tư tưởng vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại đã sống và phát triển ở khu vực này.

    Stephen Reese là một nhà sử học chuyên về các biểu tượng và thần thoại. Anh ấy đã viết một số cuốn sách về chủ đề này, và tác phẩm của anh ấy đã được xuất bản trên các tạp chí và tạp chí trên khắp thế giới. Sinh ra và lớn lên ở London, Stephen luôn yêu thích lịch sử. Khi còn nhỏ, anh dành hàng giờ để nghiền ngẫm các văn bản cổ và khám phá những tàn tích cũ. Điều này đã khiến ông theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu lịch sử. Niềm đam mê của Stephen với các biểu tượng và thần thoại bắt nguồn từ niềm tin của ông rằng chúng là nền tảng của văn hóa nhân loại. Ông tin rằng bằng cách hiểu những huyền thoại và truyền thuyết này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản thân và thế giới của mình.