Mục lục
Hầu hết các truyền thống tôn giáo đều tin vào sự tồn tại của một sinh vật xấu xa hoặc nổi loạn có thể được xác định là ác quỷ. Sinh vật này có lẽ dễ nhận dạng nhất đối với vai trò của anh ta trong Cơ đốc giáo. Trong suốt nhiều thế kỷ, anh ta đã có nhiều tên, nhưng hai tên phổ biến nhất là Satan và Lucifer. Đây là một cái nhìn ngắn gọn về nguồn gốc của những cái tên này.
Satan là ai?
Từ satan là phiên âm tiếng Anh của một từ tiếng Do Thái có nghĩa là kẻ tố cáo hoặc đối thủ . Nó bắt nguồn từ một động từ có nghĩa là chống đối.
Từ này thường được dùng trong Kinh thánh tiếng Do Thái để chỉ những kẻ thù của loài người chống lại dân của Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, ba lần trong 1 Các Vua chương 11, từ kẻ thù được dùng để chỉ người chống đối nhà vua. Trong những trường hợp này, từ kẻ thù trong tiếng Hê-bơ-rơ được sử dụng mà không có mạo từ xác định.
Việc sử dụng từ này với mạo từ xác định ám chỉ Sa-tan, kẻ thù siêu nhiên của Đức Chúa Trời và là kẻ tố cáo dân sự của Đức Chúa Trời, nhấn mạnh Satan đóng vai trò là kẻ thù tối cao.
Điều này xảy ra 17 lần trong Kinh thánh tiếng Do Thái, lần đầu tiên là trong Sách Job. Ở đây chúng ta được cung cấp cái nhìn sâu sắc về các sự kiện xảy ra ngoài tầm nhìn trần thế của con người. “Các con trai của Đức Chúa Trời” đang trình diện trước mặt Đức Giê-hô-va, và Sa-tan xuất hiện cùng với họ sau khi lang thang khắp trái đất.
Có vẻ như vai trò của hắn ở đây là một kẻ buộc tội loài ngườitrước mặt Chúa trong một khả năng nào đó. Đức Chúa Trời yêu cầu hắn coi Gióp là một người công bình, và từ đó Sa-tan tìm cách chứng minh Gióp là người không xứng đáng trước mặt Đức Chúa Trời bằng cách cám dỗ ông bằng nhiều cách khác nhau. Sa-tan cũng xuất hiện nổi bật với tư cách là kẻ tố cáo người Do Thái trong chương thứ ba của sách Xa-cha-ri.
Chúng ta cũng thấy chính kẻ thù này xuất hiện nổi bật trong Tân Ước. Anh ta chịu trách nhiệm về sự cám dỗ của Chúa Giê-su trong Phúc âm Nhất lãm (Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca).
Trong tiếng Hy Lạp của Tân Ước, anh ta thường được gọi là 'ma quỷ'. Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong Septuagint , một bản dịch tiếng Hy Lạp của Kinh thánh tiếng Do Thái có trước Tân Ước Cơ đốc giáo. Từ tiếng Anh ‘diabolical’ cũng bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp diabolos .
Lucifer là ai?
Cái tên Lucifer được đưa vào Kitô giáo từ nguồn gốc của nó trong thần thoại La Mã . Nó được liên kết với hành tinh Venus với tư cách là con trai của Aurora, nữ thần bình minh . Nó có nghĩa là "Người mang ánh sáng" và đôi khi được xem như một vị thần.
Cái tên này xuất hiện trong Cơ đốc giáo vì được nhắc đến trong Ê-sai 14:12. Vua của Babylon được gọi một cách ẩn dụ là “Ngôi sao ban ngày, Con trai của bình minh”. Bản Septuagint của Hy Lạp đã dịch tiếng Do Thái thành “người mang bình minh” hoặc “ sao mai ”.
Cuốn sách Vulgate của học giả Kinh thánh Jerome, được viết vào cuối thế kỷ thứ 4, đã dịch điều này vào Lucifer. Vulgate sau này trở thànhvăn bản Latinh chính thức của Nhà thờ Công giáo La Mã.
Lucifer cũng được sử dụng trong bản dịch Kinh thánh tiếng Anh đầu tiên của Wycliff, cũng như Bản King James. Hầu hết các bản dịch tiếng Anh hiện đại đã bỏ việc sử dụng 'Lucifer' để thay thế cho "sao mai" hoặc "sao mai".
Lucifer trở thành từ đồng nghĩa với ma quỷ và Sa-tan theo cách giải thích lời của Chúa Giê-su trong Lu-ca 10:18, “ Tôi đã thấy Sa-tan từ trời rơi xuống như tia chớp ”. Nhiều Giáo phụ đầu tiên, bao gồm cả Origen và Tertullian, đã đặt văn bản này bên cạnh Ê-sai 14 và mô tả về con rồng lớn trong Khải huyền 3, để soạn ra mô tả về cuộc nổi loạn và sự sụp đổ của Sa-tan.
Mãi sau này, cái tên Lucifer mới được cho là tên của Satan khi hắn còn là một thiên thần trước khi nổi loạn và sa ngã.
Tóm tắt
Satan, ác quỷ, Lucifer. Mỗi cái tên này đều đề cập đến cùng một hiện thân của cái ác trong siêu tự sự của Cơ đốc giáo.
Mặc dù hắn không được nêu tên cụ thể trong Sáng thế ký 1, nhưng con rắn xuất hiện trong Vườn Địa đàng để cám dỗ Adam và Eve được liên kết với con rồng vĩ đại của Khải huyền 3.
Đây thường được cho là thiên thần sa ngã Lucifer, kẻ thù của Chúa và là kẻ tố cáo dân Chúa.